Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2022)
1. Thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
- Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã có
đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa
cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
- Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính
quyền (1930 - 1945) đã diễn ra với ba cao trào cách mạng chuẩn bị cho cuộc Cách
mạng Tháng Tám giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân: Cao trào cách mạng
1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách
mạng Tháng Tám 1945 (1939 - 1945). Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã
trưởng thành và phát triển về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế
quốc và chống phong kiến không ngừng được bổ sung, phát triển, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát
triển sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã
chấm dứt, xóa bỏ chế độ thực dân và phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh
trong lịch sử dân tộc. Cách mạng Tháng Tám dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu
tranh cách mạng của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của
Chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định; Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên định
của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt
Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi. Người nhấn mạnh; Với thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Tám, chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam có
thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có
thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, nắm chính quyền.
2. Thời kỳ
bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành 2 cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 -1975)
- Những năm 1945- 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong,
giặc ngoài, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc: Xây dựng và củng cố vững chắc chính
quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06 tháng 01
năm1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09 tháng 11 năm 1946); chăm lo xây
dựng chế độ mới, đời sống mới của Nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự
ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng,
bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn
khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với quân đội của Tưởng Giới Thạch để đánh thực dân
Pháp, lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng Giới Thạch, thực hiện nhân nhượng có
nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng
vượt qua những thử thách hiểm nguy. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên
phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non
trẻ là ta đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ trước
sự tấn công từ bên ngoài.
- Tháng 12 năm 1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một
lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc
kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kỳ; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần
lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ngày 07 tháng
5 năm 1954. Thắng lợi của Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp
định Giơ-ne-vơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta,
mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn
miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
* Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo Nhân dân
ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính
đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã
hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.
- Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, thay chân
thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và
căn cứ quân sự của chúng. Dân tộc ta lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân
mới của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo
vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đường lối chiến tranh nhân dân
được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một đế quốc hung mạnh
bậc nhất thế giới, chúng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy,
tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp
ba mặt trận (quân sự, chính trị và ngoại giao); phát huy cao độ chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc với sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược
chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao
là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của Nhân dân
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi
nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời
đại sâu sắc.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện
hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo Nhân
dân ta tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản: Giữa tiến hành chiến
tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu phương lớn với tiền
tuyến lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữa quy
luật chiến tranh và quy luật xây dựng, phát triển kinh tế; giữa đẩy mạnh chiến
tranh cách mạng ở nước ta với bảo vệ hòa bình thế giới; giữa lợi ích dân tộc
với thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã thu
được những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức
người, sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ địa
cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh thắng; mở rộng quan
hệ đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bè bạn trên thế giới; tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước; tạo những cơ sở vật
chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam sau này.
3. Thời kỳ
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước từ năm 1975 đến nay Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai
giai đoạn chủ yếu:
- Từ năm
1975 đến năm 1986
+
Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân
vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược
biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.
+
Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng
bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không
còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và
thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm
khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
+
Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực
tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, đó là: Nghị quyết số
21-NQ/TW, ngày 20 tháng 9 năm 1979 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp địa phương; Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13 tháng 01 năm 1981 của
Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/QĐ-CP, ngày 21
tháng 01 năm 1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V (tháng 6 năm 1985) thừa nhận sản
xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính
trị (tháng 9 năm 1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới... Đại hội VI
của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở
ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
-
Từ năm 1986 đến nay
+
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6 năm 1991) khẳng
định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi,
cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác
định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng.
+
Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và
chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn
thiện. Những thành tựu, kinh nghiệm sau hơn 35 năm đổi mới đã tạo ra cho đất
nước thế và lực mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước; toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng:
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý, các ngành đều có bước phát
triển, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên; giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi
trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp Nhân dân được cải thiện; chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc
tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân
chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động được nâng lên; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một
số kết quả tích cực; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ”, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh đạt được một số kết quả tích cực; đa số cán bộ, đảng viên và Nhân
dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước, phồn vinh, hạnh phúc.
NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN VIỆT
NAM DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG SUỐT 92
NĂM QUA VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Những thành tựu vĩ đại
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và
giành được những thắng lợi vĩ đại, đó là:
Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập
tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế.
Thứ ba: Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực
tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được 92 năm qua, nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới.
2. Những bài
học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ
hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện quyết định để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng,
xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất
nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là
truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công,
thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với
yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào
khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường
lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
3. Một số kinh nghiệm trong công
tác xây dựng Đảng
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ,
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
- Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự
phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
- Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc.
Truyền thống lịch sử cách mạng của Đảng
bộ trong 92 năm qua:
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập, những
sách báo tiến bộ đã được truyền bá vào Hải Phương, giác ngộ tư tưởng cho những
thanh niên cấp tiến. Cuối năm 1944 cơ sở Cách mạng từ thành phố Nam Định đã lan
rộng, bám rễ ở Hải Phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, cách mạng
Tháng Tám bùng nổ. Ngày 21 tháng 8 năm 1945 khi những chiến sỹ cách mạng vào
cướp Phủ lỵ Hải Hậu, nhân dân các xóm 14, 16 ( nay là xóm 3, xóm 4) của Hải Phương
đã tham gia hưởng ứng, tiến vào giành chính quyền về tay nhân dân, kết thúc
thống trị của chế độ phong kiến thực dân trên mảnh đất Hải Hậu, mở ra thời kỳ
mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân dưới chính thể “
Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Ngay sau khi chính quyền cách mạng của huyện được
thành lập ngày 25/8/1945 một cuộc mít tinh lớn được tổ chức công bố thành lập
ủy ban cách mạng lâm thời xã Hải Phương. Trong buổi đầu Cách mạng, dưới sự lãnh
đạo của Mặt trận Việt Minh, nhân dân Hải Phương với khí thế của những con người
được đổi đời đã hăng hái tham gia các hoạt động kháng chiến kiến quốc, các cuộc
vận động “Tuần lễ vàng” “ Công trái quốc gia”, “ Mùa đông binh sĩ” các phong
trào đẩy mạnh tăng gia sản xuất, không để một tấc đất hoang được toàn dân hưởng
ứng. Các đoàn thể “Nông dân cứu quốc” “Thanh niên cứu quốc” được thành lập.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, được rèn luyện
thử thách, nhiều cá nhân giác ngộ, trở thành những nhân tố tích cực của phong
trào. Được Huyện ủy chỉ đạo trực tiếp. Ngày 16/10/1948 Chi bộ Đảng Cộng sản xã
Quần Phương, tiền thân của Đảng bộ xã Hải Phương ngày nay được thành lập tại từ
đường họ Lê xóm 22 (Nay là xóm 11), gồm 5 đảng viên. Đây là một sự kiện rất
quan trọng của Đảng bộ và nhân dân xã nhà. Từ đây phong trào cách mạng xã Hải
Phương do chi bộ đảng lãnh đạo toàn diện và trực tiếp. Dưới sự lãnh đạo của chi
bộ, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố, các đoàn thể cứu quốc được kiện
toàn. Công tác phát triển Đảng được chi bộ đặc biệt quan tâm, trong năm 1949 đã
kết nạp được 22 Đảng viên mới, nâng cao về số lượng và chất lượng của chi bộ.
Đó là điều kiện quyết định để lãnh đạo phong trào cách mạng của xã vượt qua
những thời kỳ khó khăn ác liệt nhất, đặc biệt là thời kỳ địch tạm chiếm “Hai
năm 4 tháng”; kẻ thù sử dụng bọn phản động đội lốt tôn giáo, điên cuồng chống
phá các cơ sở cách mạng, truy lùng, bắt bớ, thủ tiêu sát hại cán bộ, đảng viên,
dân quân, du kích kiên trung. Nhưng dưới sự lãnh đạo của huyện ủy, nhiều cán
bộ, Đảng viên vẫn kiên trì bám đất, bám dân, bám cơ sở để hoạt động bí mật, dựa
vào quần chúng, được quần chúng che chở giúp đỡ. Những cuộc họp chi bộ vào tối
các ngày 30/2/1950, 10/7/1950, 24/01/1951 để kịp thời ra những Nghị quyết lãnh
đạo, chỉ đạo phong trào đã khẳng định vai trò lãnh đạo của chi bộ trong thời kỳ
gian khổ ác liệt này. Mặc dù trong vùng địch tạm chiếm, nhưng chi bộ đã chăm lo
xây dựng, củng cố chính quyền. Đêm ngày 30/8/1951, Hội đồng nhân dân xã đã họp
tại Đền Bảo Ninh để bầu Ủy ban kháng chiến hành chính xã gồm 7 ủy viên. Đặc
biệt tối ngày 7/01/1952 chi bộ đã họp tại đền Bảo Ninh để bàn biện pháp chuẩn
bị phối hợp với bộ đội đánh Bốt Văn Đàn, phân công trách nhiệm cho từng Đảng
viên trong phục vụ chiến đấu, trong phá tề trừ gian.
Ngay sau khi hòa bình lập lại ở Miền bắc, chi bộ và
quân dân xã nhà lại phải đương đầu với những âm mưu, thủ đoạn chống đối, phá
hoại thâm độc của kẻ địch trong dụ dỗ cưỡng ép nhân dân di cư vào Nam, phá hoại
cải cách ruộng đất và phong trào Hợp tác hóa. Trong cuộc đấu tranh thầm lặng
này, cán bộ, Đảng viên và chính quyền cốt cán của ta đã phải chịu nhiều gian
khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là
của Huyện ủy, nhân dân Hải Phương đã thu được những thắng lợi có ý nghĩa rất
quan trọng, bảo vệ vững chắc chính quyền nhân dân, hàn gắn vết thương chiến
tranh, ổn định chính trị, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện
đời sống nhân dân. Đặc biệt trong 3 năm từ năm 1958 đến năm 1960 Hải Phương đã
xây dựng được 11 Hợp tác xã, thu hút gần 60% số hộ tham gia. 3 Chi bộ tiếp tục
được củng cố và phát triển về mọi mặt, vững vàng bước vào cuộc chiến đấu mới
chiến tranh phá hoại của đế Quốc Mỹ, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
Bước sang thời kỳ đất nước thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong hơn 35 năm đất đổi mới, Đảng bộ và
nhân dân xã nhà lại ghi tiếp những trang sử hào hùng, biến chủ nghĩa anh hùng
cách mạng trong chiến đấu chống xâm lược thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong lao động sản xuất, trong xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Chúng ta
đã vận động và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao nhiều chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phát triển
kinh tế xã hội nông thôn, như chỉ thị 100 của Ban bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị, vượt qua những khó khăn trong những năm 80 của thế kỷ trước, tạo
tiền đề để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Trong sản xuất nông
nghiệp, năng xuất lúa những năm gần đây đạt ổn định 127,3 ta/ha; nét nổi bật là
có sự chuyển dịch về cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ, chuyển đổi 25 ha từ đất
trồng lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản, sang trồng màu. Nhiều trang
trại chăn nuôi quy mô nhỏ và vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao, sản xuất tiểu
thủ công nghiệp có bước phát triển. Khu Công nghiệp 30 héc ta tại khu vực xóm
12 được xây dựng. Đã có 7 doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, tạo việc làm cho
trên 9000 lao động trong đó có gần 1000 lao động là người địa phương. Hệ thống lưới
điện phủ kín tại xã, 100% hộ dân được dùng điện. Đường trục xã, đường liên xã,
đường dong ngõ xóm đã được nhựa hóa, bê tông hóa, với số vốn hàng chục tỷ đồng,
chủ yếu do nhân dân đóng góp. Trường THCS, trường Tiểu học, trường Mầm Non đã
được kiên cố hóa 2, 3 tầng, 3 trường đều được công nhận trường đạt chuẩn Quốc
gia, trường xanh sạch đẹp, an toàn. Chất lượng giáo dục ngày một nâng cao, tỷ
lệ học sinh tốt nghiệp THCS thi đỗ vào các trường THPT ngày một tăng, số học
sinh thi đỗ vào các trường Đại học, Cao Đẳng, Trung học chuyên nghiệp ngày một
nhiều. Trường Tiểu học được tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3, trường
THCS được tặng thưởng huân chương lao động hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Đến
nay Hải Phương đã có nhiều người là tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, nhiều con em đã
trưởng thành, trở thành những cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của huyện, của
tỉnh; những cán bộ cao cấp trong lực
lượng vũ trang, những doanh nhân thành đạt. Trạm y tế đã được đầu tư xây mới
với trang thiết bị hiện đại phục vụ kịp thời trong công tác chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân, công tác văn hóa thông tin không ngừng được củng cố và tăng
cường, đáp ứng được phục vụ nhiệm vụ chính trị và làm tốt công tác tuyên truyền
chủ trương chính sách của đảng Nhà nước tới toàn dân. Phong trào “ Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ” đạt được những kết quả nổi bật có 11/11
xóm 3 trường học và trạm Y tế đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa, tất cả các xóm
đều có nhà văn hóa khang trang, có hệ thống điện chiếu sáng nông thôn. Đời sống
vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện nâng lên rõ rệt, an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tình làng nghĩa xóm ngày càng bền
chặt. Các hoạt động tình nghĩa, nhân đạo từ thiện được cán bộ Đảng viên và nhân
dân nhiệt tình hưởng ứng. 92 năm qua Đảng bộ Hải Phương không ngừng được củng
cố và phát triển cả số lượng và chất lượng, vững về chính trị, mạnh về tổ chức,
thực hiện là nhân tố quyết định thắng lợi của xã nhà. Từ một chi bộ với 5 Đảng
viên năm 1948. Ngày 12/4/1963 Hải Phương đã có 1 Đảng bộ với 58 Đảng viên, sinh
hoạt ở 3 chi bộ là một trong những đảng bộ được huyện ủy công nhận là đảng bộ 4
tốt đợt đầu của huyện, đến nay Đảng bộ đã có 16 chi bộ với 422 đảng viên, có 112 đồng chí đảng viên đang công tác tại các cơ quan
xí nghiệp, trường học, thường xuyên giữ mối liên hệ với chi bộ nơi cư trú, đã
góp phần xây dựng chi bộ, Đảng bộ vững mạnh. Đến nay Đảng bộ có 1 đồng chí được
tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, 1 đồng chí được tặng Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng,
12 đồng chí được tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, 47 đồng chí được tặng Huy hiệu
55 năm tuổi Đảng, 75 đồng chí được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, 103 đồng chí
được tặng Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng, 195 đồng chí được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi
Đảng, 138 đồng chí được tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng. Từ năm 1996 đến nay
liên tục được công nhận là đảng bộ trong sạch vững mạnh hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, chính quyền vững mạnh, được huyện ủy, tỉnh ủy tặng cờ thi đua xuất
sắc. Với những cố gắng, thành tích đã đạt được, trong thời kỳ đổi mới, Ghi nhận
những đóng góp của nhân dân và cán bộ xã Hải Phương, Đảng, Nhà nước đã tặng
thưởng nhiều danh hiệu cao quý: 16 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu
Bà mẹ Việt Nam anh hung. Xã 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng:
danh hiệu Anh hùng LLVTND trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, danh hiệu Anh
hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới; được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao
động các hạng Ba năm 2008. Năm 2014 được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn Nông
Thôn Mới, đến năm 2021 có 7 xóm cơ bản đạt xóm NTM kiểu mẫu, 4 xóm duy trì xóm
NTM nâng cao, đã được công nhận xã TNM nâng cao.
Bài học kinh nghiệm
92 năm qua Đảng bộ xã không ngừng được củng cố và phát
triển cả số lượng và chất lượng, vững về chính trị tư tưởng, mạnh về tổ chức:
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ xã luôn nắm vững và
vận dụng sang tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, Pháp luật Nhà nước trên
cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống vẻ vang của mảnh đất và
con người, biến những giá trị tinh thần đó thành sức mạnh của thời đại để
cải tạo thiên nhiên, chiến thắng xâm lược và xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu tiến lên
văn minh hiện đại.
Ý thức ý nghĩa to lớn bài học đoàn kết của ông cha
trong quá trình lập nghiệp; quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng; sự nghiệp
cách mạng là của quần chúng; bài học lấy dân làm gốc; nên Đảng bộ luôn chăm lo
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, trên
dưới đồng lòng, tất cả vì sự nghiệp chung, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua
mọi khó khăn thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng bộ xã Hải
Phương đã xác định rõ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong mọi thời kỳ
cách mạng: Trong xây dựng Đảng, nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch, vững mạnh. Trong đó coi trọng cả hai yếu tố: Số lượng và chất
lượng đội ngũ đảng viên. Thực tiễn đã qua khẳng định Đảng tin dân, dựa vào dân;
dân tin Đảng, theo Đảng, bảo vệ Đảng, nơi nào tổ chức Đảng vững mạnh, cán bộ,
đảng viên gương mẫu thì ở đó phong trào mọi mặt phát triển mạnh và ngược lại
khi tổ chức Đảng yếu, đảng viên, cán bộ thiếu gương mẫu thì phong trào đi
xuống.
Xây dựng phong cách lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể thiết
thực, sâu sát, chỉ đạo toàn diện, nắm vững trọng tâm, tập trung dứt điểm từng
khâu, từng việc trong từng thời gian, coi trọng chỉ đạo điểm, quan tâm xây dựng
điển hình. Nêu cao ý thức tự lực, tự cường, chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và Nhân dân; khiêm tốn học tập, cầu
thị, sớm tiếp thu cái mới, khoa học công nghệ tiên tiến, đồng thời tranh thủ
được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sự giúp đỡ của cấp trên và đơn vị bạn.
Trong thời gian tới đảng bộ Hải Phương tập trung quán
triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cho cán bộ Đảng viên và nhân dân tạo sự
thống nhất về tư tưởng trong triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xã hội. Tổ chức học tập Chỉ thị 05 - CT/TW trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp
tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả. Kết luận số 21-
KL/TW ngày 25/10/2021 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII, về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa”. Quy định
số 37- QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều
đảng viên không được làm.
Kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đảng toàn
Đảng, Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán
bộ, đảng viên và mỗi người dân Hải Phương càng thấy rõ hơn trách nhiệm của
mình, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, xây dựng đảng
bộ trong sạch vững mạnh. Xây dựng quê hương Hải Phương - Văn hóa - Anh hùng - Nông
thôn mới ngày càng giàu đẹp văn minh./.